Chơi tranh Tết, thú chơi tao nhã cần được gìn giữ và bảo tồn: Kỳ 1 “Tranh Đông Hồ”
“Nhất chữ, nhì tranh, tam sành, tứ mộc” câu chữ trên của người xưa ý nói đến những thú chơi hàng đầu trong dịp Tết truyền thống của người Việt. Chơi tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán đẹp, một thú chơi tao nhã của người dân Việt Nam. Chơi tranh ngày Tết khá đa dạng, muôn hình muôn vẻ tùy thuộc phong tục địa phương, địa vị, phẩm hàm trong xã hội của chủ nhân mà thú chơi cũng có ít nhiều khác nhau, tuy nhiên dù giàu có hay nghèo khó mỗi dịp Tết đến xuân về mọi gia đình người Việt thường có những bộ tranh dân gian trong nhà để đón năm mới. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Tranh Tết là một phần hồn Việt trong lành, nhân hậu và đồng thời cũng là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh sâu sắc. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Trình diễn làm Tranh dân gian Đông Hồ tại Hoàng thành Thăng Long
Chơi Tranh Tết đã có từ bao nhiêu thế kỷ nay, qua bao nhiêu thế hệ người Việt. Không biết tập quán chơi tranh ngày Tết có từ bao giờ, tương truyền rằng tập quán chơi tranh lâu đời này xuất phát từ thời Lý (1010 -1225) và nhà Trần (1225 – 1400), tuy rằng không có tư liệu chính sử nào khẳng định về những giai thoại truyền miệng này. Chỉ biết rằng từ rất lâu đời những cư dân của Thăng Long xưa và những khu vực rộng lớn trung du Bắc bộ Việt Nam đã có tập tục chơi tranh ngày Tết với các dòng tranh cổ truyền thống nổi tiếng như tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng, tranh Hàng Trống…
Theo sử sách, người Việt đã biết làm một thứ giấy gọi là mật hương chỉ vào thế kỷ thứ III. Nghề khắc ván ở đây cũng có từ thế kỷ XI, XII. Sách Thiền uyển tập anh nói là tổ tiên nhà sư Tín Học, cuối thế kỷ XII đã ra đời nghề khắc ván. Năm 1299 nhà Trần đã cho in hai bộ kinh khắc ván để ban bố thiên hạ.
Tuy nhiên, tranh khắc gỗ dân gian như ngày nay là một khái niệm đến sau. Bia ký và chính sử không ghi chú về niên đại. Trong các dòng tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam thì tranh Đông Hồ (xuất xứ từ làng Đông Hồ Bắc Ninh) là được nhắc đến nhiều hơn cả. Đó là một vùng quê trù mật của văn hóa truyền thống. Thời thịnh vượng nhất của tranh Đông Hồ là vào thế kỷ XVII, XVIII. Người ta còn gọi nó bằng cái tên nôm na, thân mật hơn, đó là tranh Tết, bởi nó được sản xuất và bán vào dịp Tết Âm lịch cho khắp nơi ở chợ quê. Vào những ngày đó, trên từng vách gỗ trong cung điện của vua chúa cho đến vách nứa nhà tranh đơn bạc, màu sắc của tranh tưng bừng như tiếng pháo, niềm vui và mơ ước đầu năm.
Ván khắc và dụng cụ làm tranh Đông Hồ
Về đề tài vẽ, tranh Đông Hồ có loại chúc tụng như Đàn gà, ước cho ai nấy đều xum xuê con cháu. Đứa bé ôm con gà Vinh hoa, ôm con vịt Phú quý. Bên cạnh đó là tranh sinh hoạt: Đánh vật, đánh đu, Tiến sĩ vinh quy… Rồi tranh lịch sử như Bà Trưng, Phù Đổng thiên vương, Ngô Quyền… Tranh truyện như Kiều, Thạch Sanh. Lại còn có loại tranh thờ.
Bức tranh “Đàn gà” Tranh dân gian Đông Hồ
Nghệ thuật của tranh Đông Hồ – trong thẩm mỹ nghệ thuật dân gian nói chung rất giản dị, chân thật, có lúc ngây ngô đến vụng về nhưng nó bao hàm một vẻ đẹp không thể cưỡng lại của một tâm hồn nguyên thủy, như sự nối tiếp âm thầm của một nền văn hóa lâu đời. Tranh Đông Hồ được khắc trên ván gỗ, trước hết là một bản nét, rồi tranh có bao nhiêu sắc thì thêm bấy nhiêu bản màu. Tranh được vẽ bằng cách bôi màu vào bản khắc gỗ, mỗi màu một bản sau đó ấn khuôn lên giấy. Nền tranh là giấy dó (làm bằng vỏ cây dó) phết lên một lớp điệp một màu óng bạc (bột tán từ một loại vỏ sò). Loại giấy này được sản xuất theo lối thủ công đưa từ làng Đông Cảo – Bắc Ninh hay làng Bưởi – Hà Nội về, cắt thành nhiều cỡ, nhỏ nhất là 11cm x 12cm, lớn nhất là 22cm x 31cm. Trên thớ điệp, màu vàng hòe tượng trưng cho sự no đủ, màu vàng rộm lên như cánh đồng lúa chín, màu xanh như luỹ tre, màu đỏ gấc như yếm thắm, màu nhiễu tím như thắt lưng, màu đen như váy lĩnh giữa mùa quan họ. Tất cả đều là vật liệu có sẵn trong thiên nhiên. Nét tranh khắc rất sâu, màu in phẳng đẹp. Để hoàn thiện một bức tranh Đông Hồ cần rất nhiều thời gian. Phải có một số thợ thủ công chuyên nghiệp làm mực vẽ và giấy cũng như việc làm khuôn và in tranh. Các màu thường lấy từ chất liệu tự nhiên, màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó; màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu sơn lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp… Những chất màu thô này được trộn với nhau và hòa với một lượng bột nếp trước khi in để tạo một lớp hồ, làm cho giấy tranh cứng hơn sau khi phơi khô. Sau khi in thành tranh, kể cả cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia có sự ăn ý hài hòa một cách tự nhiên.
Một số đề tài tranh Đông Hồ
1. Đề tài “Chúc tụng”:
2. Đề tài “Sinh hoạt”:
3. Đề tài “Lịch sử/Tranh truyện”:
4. Bộ tranh “Bốn mùa”:
Nhân dịp Tết Nguyên đán Đinh Dậu năm 2017, Để góp phần gìn giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, các phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về, Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội tổ chức Trưng bày, triển lãm tranh Tết truyền thống Việt Nam góp phần tôn vinh, gìn giữ, bảo tồn và phát huy thú chơi tranh Tết rất tao nhã, nhân văn của dân tộc Việt.
Mời Quý độc giả đón xem tiếp Kỳ 2 : “Tranh Hàng Trống”
Ban biên tập