Di tích Cổ Loa
Thành Cổ Loa là tòa thành có niên đại cổ nhất ở Việt Nam được xây dựng vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc. Thành gắn liền với những truyền thuyết kỳ thú của người Việt, về An Dương Vương định đô xây thành, về nỏ thần Kim Quy bắn một phát hạ hàng trăm tên giặc, về mối tình bi thương và cảm động của Mỵ Châu – Trọng Thủy… Từ bao đời nay, dấu vết của ngôi thành cổ này cùng với những nhân vật được huyền thoại hóa đã đi vào tiềm thức của người dân Việt Nam.
Hình ảnh một số di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa
Vị trí địa lý quan trọng của thành Cổ Loa
Nhìn từ tầm vĩ mô, vị trí của Cổ Loa có ý nghĩa rất lớn. Đây là nơi hai dòng sông huyết mạch giao nước gần Cổ Loa, là đỉnh thứ hai của tam giác châu thổ sông Hồng, đánh dấu một tọa độ quan trọng cả về địa lí lẫn lịch sử.
Cổ Loa còn ghi nhận thêm nữa cái “địa lợi” là ở sát kề ngay bờ sông Hoàng Giang (sông Thiếp, sông Ngũ Hiệp), có một cửa thông với sông Hồng, một cửa thông với sông Cầu, có thể dễ dàng theo sông nước mà ngược xuôi đi các vùng miền.
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào ở đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp nay chỉ còn là một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia là một nhánh lớn và quan trọng của sông Hồng – con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình, nối liền sông Hồng với sông Cầu.
Như vậy, về phương diện giao thông, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ nơi nào tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời đó. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng và sông Thái Bình – hai mạng lưới đường thủy chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc Bộ. Qua sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi: ngược lên sông Hồng có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc; xuôi xuồng sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng Đông Bắc Bộ thì theo sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.
Với cái nhìn khu vực – tầm nhìn vi mô, thì Cổ Loa là một khu đất rất cao, thoải dần từ phía Bắc xuống phía Nam, theo dòng sông nước chảy. Rải rác đó đây có những gò đất nhô đội vào những doi đất cao, chạy dọc sông. Đó là một môi trường rất thuận lợi cho việc tụ cư và xây dựng các công trình thổ mộc: gần sông nhưng lại tránh được nước dâng, và lợi dụng ngay được những địa hình đường gờ mà nối đắp lên những công sự lớn, đỡ tốn sức người.
Nhà để bia trong đền Thượng
Dấu vết khảo cổ học về những con người đầu tiên sinh sống ở Cổ Loa
Những người đầu tiên được môi trường – cảnh quan Tiền Cổ Loa hấp dẫn đến khai phá và làm chủ nơi này chính là nhóm cư dân đã để lại dấu tích ở Di chỉ Đồng Vông. Vậy những người đầu tiên có mặt ở Cổ Loa – Đồng Vông từ đâu tới? Các nghiên cứu khảo cổ học cho biết, Đồng Vông trước hết “là một di chỉ thuộc nhóm di tích giai đoạn Phùng Nguyên” (4000 – 3500 Tr.CN), hoặc là Phùng Nguyên muộn.
Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho biết: “Cả một cụm di chỉ phần nhiều là Phùng Nguyên muộn, đầu thời đại Đồng thau – đã phát hiện dọc đôi bờ Ngũ Huyện Khê, cũng như ở nhánh Tiêu Tương ở phía hạ lưu của nó, khu vực Cổ Loa. Đó là Đồng Vông, là Xuân Kiều, xa hơn chút nữa là chân núi Tiên Sơn và vùng đồi Lim, cho đến tận Võ Cường, mé ngoài thị xã Bắc Ninh, trên sườn đồi giáp mé sông của những làng quan họ sau này”.
Khai phá đầu tiên khu vực Cổ Loa từ những năm nửa đầu thiên niên kỷ thứ II Tr.CN, cư dân Đồng Vông trong khi mở rộng sự phát triển của văn hóa Phùng Nguyên, về phương diện lịch sử đã tham gia tích cực vào việc khởi phát thời kỳ Tiền Hùng Vương – Thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Điều này có nghĩa là Cổ Loa, với sự xuất hiện những cư dân đầu tiên của mình ở Đồng Vông, đã khởi động lịch sử của mình, kèm theo ý nghĩa là một địa vực rất sớm được khai phá, ngay từ buổi đầu thời đại Hùng Vương.
Liền sau nhóm cư dân Đồng Vông là hai nhóm cư dân tiếp tục lên sinh sống ở Cổ Loa. Người xưa đã lưu dấu tích lại ở hai Di chỉ Xuân Kiều và Tiền Hội. Sự phát triển liên tục ấy, bây giờ đã chính thức đến giai đoạn quan trọng nhất: giai đoạn Văn hóa Gò Mun – Đông Sơn ở trên đất Cổ Loa. Hai di chỉ cổ học tiêu biểu cho giai đoạn này đã được phát hiện ở đây là Đình Tràng (Chàng) và Đường Mây.
Sự “hội tụ văn hóa” ở Cổ Loa vậy là đã thấy rõ là vào thời gian phát triển cuối cùng của di chỉ Đình Chàng. Điều ấy có nghĩa là khi ấy, cư dân Việt cổ chứng kiến hoặc tham gia vào việc chuyển Cổ Loa từ thời Tiền Cổ Loa sang thời Cổ Loa đích thực – Cổ Loa thời An Dương Vương.
Kết cấu thành Cổ Loa
Cổ Loa được hình thành cùng với thời kỳ An Dương Vương – Thục Phán. Thời kỳ đó được mở đầu bằng việc xây đắp một tòa thành ở Cổ Loa. Đắp thành ở Cổ Loa, An Dương Vương đã chuyển khu vực Cổ Loa ở thời tiền Cổ Loa thành kinh đô của nước Âu Lạc.
Về mặt vật chứng, kết quả nghiên cứu khảo cổ học thành Cổ Loa đã phát lộ những hình thể của di tích tòa thành còn lại như sau:
Tường thành
Di tích thành hiện thấy có ba vòng gồm tường thành Ngoại, tường thành Trung và tường thành Nội.
Tường thành Ngoại (Ngoài) là một vòng tường khép kín, lần theo những gò đống thiên nhiên, nên không có hình dáng rõ ràng. Các vòng tường thành không phải tất cả đều do đắp xây, mà nhiều đoạn vốn là gò đất tự nhiên. Có thể khẳng định rằng tường thành được đáp nối vào các gò vốn có, hoặc đắp thêm trên các gò theo thế tự nhiên mà thành.
Tường thành Trung (Giữa) là một vòng khép kín, không có hình dáng nhất định. Cũng do đắp nối các gò tự nhiên và ven theo đầm hồ mà thành. Chiều dài khoảng 6.500m (theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng). Còn theo R.Despierres và Cổ Loa.Madroll thì thành dài 6.150 cao từ 6 đến 12m, mặt thành rộng trung bình 10m. Chân thành rộng tới 20m.
Một điều độc đáo là, vòng tường thành Ngoại và Trung được đắp bằng nhau ở phía Nam, tạo thành một quãng trống làm cửa ra vào. Hai vòng thành Ngoại và Trung mang một tuổi chung, nối liền nhau, tạo lối ra vào và việc cùng thuận theo thế đất tự nhiên để đắp tường làm cho tường thành Ngoại và Trung có dáng vẻ nguyên thủy của một công trình quân sự.
Tường thành nội (Trong) mang dáng vẻ khác hẳn hai vòng tường thành trên, có hình chữ nhật nghiêm chỉnh, chu vi khoảng 1.650m, mặt thành rộng khoảng 10m chân thành rộng khoảng 20m. Thành cao chừng 5m.
Hào ngoài
Cả ba vòng tường thành đều có hào ngoài. Hào thành Ngoài, phía Tây Nam, lợi dụng con sông Hoàng, chảy gần sát tường thành. Phía Tây Nam, từ gò Cột Cờ; phía Đông, từ Đầm Cả, người xưa đã đào khắp phía ngoài tường thành. Như vậy, nước sông Hoàng có thể chảy thông khắp quanh thành.
Hào thành Giữa cũng nối với hào thành Ngoài ở gò Cột Cờ và Đầm Cả.
Hào thành Trong được đào quanh tường thành. Đó là một vòng hào khép kín, nối sông Hoàng bằng một trong năm lạch nước ở thành Giữa.
Cửa thành.
Vòng thành Trong, được xây dựng theo bốn hướng chính: Nam, Bắc, Đông, Tây, nhưng chỉ mở một cửa ở chính giữa tường thành phía Nam.
Vòng thành Giữa mở bốn cửa: cửa Trấn Nam, cửa Bắc, cửa Tây Bắc, cửa Tây Nam. Đó là những nét khảo tả và trình bày về hình thể và hiện trạnh của tòa thành Cổ Loa.
Di tích trong khu vực Cổ Loa
Khu vực Cổ Loa còng lại đến ngày nay không phải là một di tích nhỏ bé mà là cả một quần thể di tích. Đó là:
Đền Thục An Dương Vương, thường được gọi là đền Thượng, được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ tám đời Vua Lê Hi Tông (năm 1687), sửa lại năm 1689. Đền tọa lạc trên một quả đồi xưa có cung thất của Vua. Cửa đền có hai con rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, mang nghệ thuật điêu khắc thời Lê. Nhà bia có 3 tấm bia đá khắc năm vào năm Bính Ngọ niên hiệu Hoằng Định (năm 1606). Trong đền có ngựa hồng làm từ năm Bính Thân niên hiệu Vĩnh Thịnh (năm 1716), tượng đồng Vua Thục đúc năm Thành Thái thứ chín (năm 1897), nặng 255kg.
Giếng Ngọc: Ngay trước đền, giếng ngọc là một hồ hình bán nguyệt, giữa đắp bờ tạo thành giếng ngọc. Tương truyền, đây là nơi sau khi phản bội Mỵ Châu, Trọng Thủy gieo mình xuống giếng tự tử, nước giếng này đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng đẹp bội phần, bởi vậy giếng được gọi là Giếng Ngọc từ đó.
Am Bà Chúa: Ngay sau cây đa nghìn tuổi tỏa bóng mát cả một vùng sân rộng, gốc đa rẽ đôi thành chiếc cửa tò vò thiên nhiên mở lối đi vào am. Tượng bà chúa Mỵ Châu là một tảng đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Huyền thoại kể rằng, sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to rồi trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía Đông thành Cổ Loa. Dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ. Trên tường Am có bức hoành khắc bài thơ chữ Hán của nhà thơ Chu Mạnh Trinh.
Đình Ngự Triều Di Quy: Xây dựng trên nền điện thiết triều cũ, năm Đinh Mùi niên hiệu Thành Thái (năm 1907), có dáng vóc vững chãi, bề thế, mái đao cong vút. Cột đình có đôi câu đối của Tôn Thất Thuyêt, một thủ lĩnh Cần Vương chống Pháp:
Tặc đáo Loa thành tùy diệt một,
Điện vô quy nỗ dũng uy linh.
Nghĩa là:
Giặc đến thành Loa theo diệt hết,
Điện không nỏ báu vẫn linh thiêng.
Hội đền Cổ Loa tổ chức vào đầu xuân hàng năm, từng có câu rằng: “Chết bỏ con cháu, sống không bỏ mồng sáu tháng Giêng”.
Ý nghĩa và giá trị của thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa, trước hết là một Kinh thành đồng thời là một quân thành, một Thị thành.
Kinh thành Cổ Loa thời An Dương Vương – Kinh đô của nước Âu Lạc, nơi đặt bộ máy triều chính. Đó là một Kinh thành với dáng vẻ của những Kinh đô “tam trùng thành quách” mà các thời phong kiến về sau cũng đã được hình dung ra: vua và hoàng gia ở tại thành Nội, các quan văn quan võ và quân đội ở tại thành Trung, dân chúng ở thành Ngoại. Kiến trúc cung đình mọc lên, không đến nỗi lộng lẫy vàng son xa hoa như các kinh thành thời sau nhưng cũng đủ các chi tiết vật thể: “Nền nhà lát gạch kẻ hoa văn, mái lợp ngói ống và ngói bản. Ngói có đóng đinh và đỉnh ngói cũng nặn bằng đất sét nung, đầu đỉnh vẽ hoa văn trang trí. Diềm mái chạy một hàng đầu ngói ống với các loại hoa văn trang trí hình mây cuốn …”.
Những vòng thành Cổ Loa khoanh lại đã tạo nên một căn cứ quân sự – một Quân thành – có địa vị quốc đô, hay đúng hơn một Kinh thành kiêm cả chức năng Quân thành. Đó là một thực tế sáng giá ở Cổ Loa thời An Dương Vương.
Thị thành Cổ Loa thời An Dương Vương cũng là mang tính chất đặc trung ở thời kỳ này, mới được nhận diện cho phù hợp với các dẫn liệu ngày càng thấy rõ hơn ở Cổ Loa. Đó là dấu tích của hai khu vực sản xuất thủ công: luyện kim – đúc đồng, không những có quy mô lớn, mà còn chuyên hóa trong việc sản xuất các chế phẩm.
Từ Cổ Loa hình thành con đường vận chuyển, buôn bán đường thủy, trao đổi với các nơi, tập trung từ Đầm Cả – Vườn Thuyền Ao Mắm … Và chợ Cổ Loa thời An Dương Vương cũng đã được thể hiện, đó là chợ Sa, đến ngày nay vẫn phồn thịnh…
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và Kinh đô; đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như dưới nước khi tác chiến.
Với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống của dân thường. Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo và phân hóa giai cấp hơn thời các Vua Hùng.
Là một tòa thành cổ nhất còn để lại nhiều dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gồm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương.
Hàng năm, vào ngày 6 tháng Giêng, cư dân Cổ Loa tổ chức lễ hội trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành và tạo dựng lên khu di tích Cổ Loa.
Từ những đặc điểm trên cho thấy Cổ Loa là một thành cổ ra đời từ thế kỷ thứ III Tr.CN do Thục An Dương Vương khởi dựng. Tích hợp vào thủ đô Hà Nội thời bây giờ, Cổ Loa vừa làm tăng sự lâu đời của đô thị Hà Nội thêm hàng nghìn tuổi, vừa bổ sung cho vị trí và vai trò trung tâm đầu não, phồn thịnh của miền đất thượng kinh này. Những tính chất đặc trung cho một thời vàng son của thành cổ: Kinh thành, Quân thành, Thị thành cổ đại, cùng với những giá trị của một quá trình rất lâu dài đấu tranh bảo vệ – bảo tồn bản sắc – đã làm tôn lên giá trị của Cổ Loa và Thăng Long ngàn năm tuổi./.
Ts. NGUYỄN DOÃN TUÂN
Trưởng ban quản lý di tích danh thắng Hà Nội