Công chúa Mỵ Châu
Mỵ Châu là con gái của Thục An Dương Vương. Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy là một trong những câu chuyện có sức hấp dẫn được lưu truyền trong dân gian về buổi đầu của lịch sử dân tộc – một câu chuyện vừa mang nét hiện thực vừa mang nét huyền thoại thời Âu Lạc.
Nói đến Mỵ Châu, nhiều người nhớ đến câu chuyện tình Mỵ Châu – Trọng Thủy qua nhưng câu thơ quen thuộc của nhà thơ Tố Hữu:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm chỗ để lên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
Đàng sau tình duyên Mỵ Châu – Trọng Thủy là cả một âm mưu thôn tính thâm hiểm của Triệu Đà, và người thực hiện mưu kế ấy là Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà. Người con gái trong trắng ngây thơ, tin tưởng tình yêu một cách chân thành cuối cùng đã bị chính người chồng đưa vào bẫy, làm mất nước. Trọng Thủy làm rể của An Dương Vương và kẻ ở rể lại phục vụ cho âm mưu của Triệu Đà – lấy bí quyết nỏ thần để cướp nước.
An Dương Vương mong mỏi hoà hiếu giữa hai quốc gia, chấm dứt cảnh đao binh từ duyên tình con trẻ. Nhưng sự thiếu cảnh giác, khinh địch của mình lại là chỗ hở để kẻ dã tâm là cha con Triệu Đà lợi dụng.
Truyền thuyết kể rằng, Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi ngầm bẻ gãy lẫy nỏ, thay cái khác vào. Sau khi phá được bí mật quân sự của Âu Lạc, Trọng Thủy xin An Dương Vương về thăm cha mẹ. An Dương Vương bằng lòng. Trọng Thủy báo lại cho Triệu Đà mọi việc.
Triệu Đà lại phát binh đánh Âu Lạc, sai Trọng Thủy cầm quân. An Dương Vương chủ quan vì có vũ khí “nỏ thần”, khi ra trận mới biết vũ khí không còn hiệu nghiệm, thua trận mang Mỵ Châu chạy về phía nam.
Trọng Thủy theo lời dặn của Mỵ Châu trước khi chia tay, cứ theo dấu lông ngỗng mà Mỵ Châu rắc ra đường làm dấu mà đuổi theo.
Chuyện kể rằng sau khi An Dương Vương chạy đến khu vực núi Mộ Dạ (Nghệ An) được thần Kim Quy cho biết người ngồi sau lưng mình chính là giặc liền chém công chúa Mỵ Châu, máu chảy loang mặt nước, loài trai nuốt vào bụng hóa thành hạt minh châu.
Sau khi mất, theo truyền thuyết được Trọng Thủy đưa về mai táng ở Cổ Loa hóa thành hòn đá ngọc. Tại làng Cổ Loa hiện còn lăng bà Chú (ở đông bắc xóm Vang, phía nam khu đầm Cả).
Tuy nhiên, ở Cổ Loa còn lưu truyền một truyền thuyết khác về Mỵ Châu và bức tượng đá.
“Một thời gian sau khi Mỵ Châu mất, tự nhiên ở khu Đầm Cả xuất hiện một hòn đá lạ. Có người đánh dậm, đánh cả ngày mà không được gì, chỉ thấy trong dậm có một hòn đá, vứt xuống nước nhiều lần mà không được cuối cùng phải vớt hòn đá lên bờ.
Trẻ chăn trâu thấy hòn đá lấy làm vui thích trèo lên nghịch ngợm, sau về nhà đều bị ốm. Từ đó dân làng biết hòn đá là linh thiêng nên dân mấy làng cùng đến rước, nhưng tất cả các làng xung quanh đều không làng nào rước được về, chỉ khi dân Cổ Loa mang võng đào ra khiêng, cử hai cụ đám đến thì hòn đá lập tức lăn vào võng và dân Cổ Loa khiêng về được. Đi đến quãng nay là am Mỵ Châu thì võng bị đứt, không cách nào mang đi được nữa, dân làng bèn lập am thờ tại đó. Tảng đá Mỵ Châu ban đầu có kích thước nhỏ, sau cứ lớn dần mãi. Đến khi nhân dân phải cầu xin tảng đá mới thôi không lớn nữa. Tảng đá trong mình có ngọc nên ngày một lớn và rất linh thiêng, cho đến khi quân giặc kéo sang, lấy ngọc mang đi, lấy ngọc mang đi, tảng đá mới thôi không lớn nữa và không còn linh thiêng. Chỗ mà hòn đá được vớt lên được nhân dân gọi là Lăng Bà Chúa”.
Những câu chuyện dân gian qua nhiều thời kỳ lịch sử phản ánh một dấu ấn sâu đậm của Mỵ Châu trong đời sống tâm linh của nhân dân Cổ Loa với một sự linh thiêng thành kính.