Lý Phật Tử – Hậu Lý Nam Đế
Mùa xuân năm 544, Lí Bí lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Sau đó do sức khoẻ yếu, ông giao binh quyền cho Triệu Quang Phục và hai năm sau thì mất (năm 548).
Trong khi đó, Lý Phật Tử cùng anh Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo đem 3 vạn người vào Cửu Chân, đánh chiếm được Đức châu (Nghệ An), giết tướng nhà Lương là Trần Văn Giới. Sau đó, hai tướng họ Lý mang quân ra đánh Ái châu (Thanh Hóa), Trần Bá Tiên mang quân tới đánh, Thiên Bảo và Phật Tử bị thua, bèn thu nhặt quân còn sót được vạn người chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao (Lào).
Lý Thiên Bảo thấy động Dã Năng ở đầu nguồn Đào Giang, đất phẳng rộng màu mỡ có thể ở được, Lý Thiên Bảo mới đắp thành để ở, nhân tên đất ấy mà đặt quốc hiệu. Đến bây giờ quân chúng tôn làm chúa, xưng là Đào Lang Vương. Lý Phật Tử là tướng dưới quyền.
Triệu Quang Phục đóng quân trong đầm Dạ Trạch cầm cự với Trần Bá Tiên, tự xưng là Dạ Trạch Vương. Tháng 3 năm 548, nghe tin Lý Nam Đế mất trong động Khuất Lão, Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương. Năm 550, gặp lúc bên nước Lương xảy ra loạn Hầu Cảnh, nhà Lương gọi Bá Tiên về, ủy quyền cho tì tướng là Dương Sàn cầm quân. Triệu Việt Vương tung quân ra đánh, giết chết Dương Sàn. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Triệu Việt Vương lấy lại được nước nước, đóng đô ở thành Long Biên.
Triệu Việt Vương làm vua ở thành Long Biên. Lý Thiên Bảo làm Đào Lang Vương ở nước Dã Năng. Năm 555, Thiên Bảo chết không có con nối, quân chúng suy tôn Lý Phật Tử lên nối ngôi.
Năm 557, Lý Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với Triệu Việt Vương ở huyện Thái Bình. Hai bên năm lần giáp trận, chưa phân thắng bại, quân của Phật Tử có phần kém thế hơn. Phật Tử liệu không thắng được bèn xin giảng hòa xin ăn thề. Triệu Việt Vương nghĩ ông là người họ của Lý Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở bãi Quân Thần (nay là hai xã Thượng Cát, Hạ Cát ở huyện Từ Liêm) cho ở phía tây của nước.
Sách Tùy thư chép: “Năm Nhâm Thọ thứ 2, mán Giao Châu là Lý Phật Tử làm loạn, đóng quân ở thành Việt Vương cũ. Lý sai con của anh là Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên, Biệt súy là Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên”.
Sách An Nam chí lược ghi: “Năm Nhâm Thọ thứ 2, Lý Phật Tử làm loạn chiếm thành cũ của An Dương Vương”
Truyền thuyết dân gian và thần tích nhắc nhiều đến Lý Phật Tử, đặc biệt là những truyền thuyết xung quanh việc Phật Tử dùng mưu chiếm thành của Triệu Quang Phục – cùng mô thức như chuyện Rùa Vàng về Thục Phán – An Dương Vương.
Lý Phật Tử có con trai là Nhã Lang, xin lấy con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương. Việt vương bằng lòng, nên hai nhà kết thành thông gia. Vì yêu quý Cảo Nương nên Việt Vương cho Nhã Lang ở rể.
Sau Nhã Lang biết được bí mật về quân sự của Triệu Việt Vương, báo lại cho Hậu Lý Nam Đế. Lý Phật Tử mang quân đánh úp Việt Vương. Việt Vương tự biết thế yếu không thể chống được, bèn đem con gái chạy về phía nam, muốn tìm nơi đất hiểm để ẩn náu tung tích, nhưng đến đâu cũng bị quân Lý đuổi theo sau gót. Việt Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường, bèn nhảy xuống biển tự vẫn.
Lý Phật Tử lên làm vua cả nước, đóng đô ở Phong Châu. Vì ông cũng xưng là Lý Nam Đế, nên đời sau gọi là Hậu Lý Nam Đế để phân biệt với Lý Bí.
Năm 602, nhà Tùy lấy Lưu Phương – người Trường An, Thứ sử Qua Châu, nhận chức Giao Châu đạo hành quân làm tổng quản, thống lĩnh 27 quân doanh sang đánh chiếm nước Vạn Xuân. Cuộc chiến do Lý Phật Tử chỉ huy nhanh chóng thất bại.
Thần tích Đình làng Mễ Trì Hạ thì kể rằng: Lý Phật Tử đem quân đánh quân Tùy nhưng thua trận, lui về cố thủ ở thành Cổ Loa rồi mới ra hàng.
Thần tích Hoàng thái hậu Phương Dung, vợ của Lý Phật Tử tại Dịch Vọng kể, bà đã cùng hoàng tử hộ giá Lý Phật Tử chạy khỏi thành Cổ Loa, khi bị Luuw Phương bao vây, hoàng hậu bị nhà Tùy bắt được và giết chết.
Lý Phật Tử cũng như các nhân vật liên quan đến lịch sử thời kỳ này như Lý Bí, Triệu Quang Phục, Nhã Lang, Lý Phật Tử được thờ khá nhiều ở vùng xung quanh Cổ Loa.