Một vài nét về Lễ Cải nguyên trong cung đình từ thời Lý đến thời Lê

Hệ thống nghi lễ cung đình dưới thời phong kiến có thể chia làm hai loại: nghi lễ triều hội và nghi lễ tế tự. Những nghi lễ triều hội liên quan đến những công việc triều chính, giải quyết các vấn đề trọng đại của dân tộc, nghi lễ tế tự cung đình là việc tế lễ tại tông miếu của hoàng gia và lập đàn cúng tế mang tính chất và tầm cỡ quốc gia. Trong nghi lễ triều hội, có những nghi lễ thường kỳ nhưng cũng có nghi lễ mang tính chất không thường kỳ. Trong những nghi lễ không thường kỳ đó, sau nghi lễ Đăng quang có thể nói lễ Cải nguyên cũng có vai trò rất quan trọng.

Lễ Cải nguyên nghĩa là thay đổi kỷ nguyên hay còn gọi là lễ đổi niên hiệu. Niên hiệu (giản thể: 年号, phồn thể: 年號, bính âm: niánhào) là một giai đoạn gồm các năm nhất định được các hoàng đế Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như Việt NamTriều Tiên và Nhật Bản sử dụng. Mỗi vua thường có một hoặc nhiều niên hiệu riêng. Sau niên hiệu là số năm (thông thường bắt đầu từ ngày đầu năm mới âm lịch)[1]. Hay theo Hán Việt tân từ điển, Nguyễn Quốc Hùng, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1975: Niên hiệu là “tên hiệu của một vị vua, dùng để tính năm, kể từ năm vị đó lên ngôi”[2]. Hệ thống tên trị vì được khởi xướng ở Trung Quốc cổ đại khi một vị vua mới lên ngôi và vị vua mới tính toán lại số năm trị vì của mình để phân biệt mình với vị vua trước đó.

Niên hiệu là danh hiệu của vị vua được đặt khi lên ngôi để thần dân trong nước gọi thay cho tên chính, đồng thời để tính năm trị vì. Niên hiệu được coi là một trong những biểu tượng của quyền lực hoàng gia và chỉ được dùng cho hoàng đế (không giống như định nghĩa tên hiệu). Ý nghĩa của những chữ trong niên hiệu bắt nguồn từ triết lý vương quyền trong Nho giáo. Theo lý thuyết này, vua là thiên tử, cai trị đất nước là do mệnh trời sắp đặt, thay trời hành đạo nên niên hiệu còn thể hiện mong muốn, mục đích về thời gian trị vì. Vị hoàng đế nào lên ngôi đều có niên hiệu để biểu hiện với dân rằng bắt đầu từ đây là một kỷ nguyên mới và thường mang ý nghĩa tốt đẹp. Việc hoàng đế muốn đổi niên hiệu khác thì được gọi là cải nguyên nghĩa là “thay đổi kỉ nguyên”.

Đối với nhà vua, tên hiệu của vua còn thể hiện tính tôn nghiêm và uy quyền của bậc đế vương. Trong các văn bản của triều đình phong kiến và trong dân gian, có một quy định rất quan trọng để tránh phạm húy nghĩa là phải tránh đọc hay viết tên của nhà vua. Và để tăng tính tôn nghiêm và thần thánh hóa vương quyền, cổ luật thời phong kiến không những cấm viết mà còn cấm cả việc đọc tên thật của nhà vua. Vì vậy, niên hiệu rất quan trọng để người dân gọi vị vua thay bằng tên thường và phân biệt thời kỳ trị vì của các vị vua khác nhau trong lịch sử.

Về nguyên tắc, niên hiệu được lựa chọn rất cẩn thận vì nó là danh hiệu của người đứng đầu quốc gia với quyền lực to lớn. Niên hiệu khi đọc lên nghe phải có âm vang và trong sáng, ý nghĩa gửi gắm những sự cầu ước, nói lên điềm lành và có sự gắn kết với triết lý vương quyền, thần linh.

Người bắt nguồn đầu tiên sử dụng niên hiệu là vua Hán Vũ Đế. Trong suốt thời gian ông trị vì từ năm 140 TCN đến 87 TCN, Vũ Đế đặt 11 niên hiệu, trong đó 6 niên hiệu đầu được ông đều đặn đổi 6 năm 1 lần; 4 niên hiệu sau đó đổi đều đặn 4 năm 1 lần. Các đời vua sau đó, mỗi một vị vua lại có cách đặt niên hiệu khác nhau. Các hoàng đế thời Minh và Thanh thường chỉ sử dụng một niên hiệu trong suốt thời gian trị vì của họ, do vậy người ta thường dùng niên hiệu để gọi tên hoàng đế của các triều đại này.

Tại Việt Nam, Lý Bôn (544-549) là vua đầu tiên đặt niên hiệu là Thiên Đức. Việc đặt niên hiệu các giai đoạn về sau không được liên tục nhưng đến từ vua Đinh Tiên Hoàng (968-979) đến vua Bảo Đại (1926-1945), vị nào cũng có niên hiệu. Niên hiệu có ý nghĩa rất quan trọng trong ý thức hệ của các vị vua dưới thời kỳ phong kiến. Mỗi niên hiệu được đặt ra đều có ý nghĩa thể hiện sự mong muốn và phương trâm trị vì của vị vua đó.

Các triều đại phong kiến Việt Nam có tất cả 144 niên hiệu, trong đó niên hiệu từ thời Lý đến Lê có 119 niên hiệu. Cụ thể[3]:

   STT Niên hiệu Thời gian Đời vua
1.     Thuận Thiên 1010-1028 Lý Thái Tổ
2.       Thiên Thành 1028-1034 Lý Thái Tông
3.       Thông Thụy 1034-1039
4.       Càn Phù Hữu Đạo 1039-1042
5.       Minh Đạo 1042-1044
6.       Thiên Cảm Thánh Vũ 1044-1049
7.       Sùng Hưng Đại Bảo 1049-1054
8.       Long Thụy Thái Bình 1054-1058 Lý Thánh Tông
9.       Chương Thánh Gia Khánh 1059-1065
10.   Long Chương Thiên Tự 1066-1068
11.   Thiên Huống Bảo Tượng 1068-1069
12.   Thần Vũ 1069-1072
13.   Thái Ninh 1072-1076 Lý Nhân Tông
14.   Anh Vũ Chiêu Thắng 1076-1084
15.   Quảng Hựu 1085-1092
16.   Hội Phong 1092-1100
17.   Long Phù 1101-1109
18.   Hội Tường Đại Khánh 1110-1119
19.   Thiên Phù Duệ Vũ 1120-1126
20.   Thiên Phù Khánh Thọ 1127-1127
21.   Thiên Thuận 1128-1132 Lý Thần Tông
22.   Thiên Chương Bảo Tự 1133-1138
23.   Thiệu Minh 1138-1140 Lý Anh Tông
24.   Đại Định 1140-1162
25.   Chính Long Bảo Ứng 1163-1174
26.   Thiên Cảm Chí Bảo 1174-1175
27.   Trinh Phù 1176-1186 Lý Cao Tông
28.   Thiên Tư Gia Thụy 1186-1202
29.   Thiên Gia Bảo Hựu 1202-1205
30.   Trị Bình Long Ứng 1205-1210
31.   Kiến Gia 1211-1224 Lý Huệ Tông
32.   Càn Ninh[4] 1211-1216 Lý Nguyên vương
33.   Thiên Chương Hữu Đạo 1224-1225 Lý Chiêu Hoàng
34.   Kiến Trung 1225-1232 Trần Thái Tông
35.   Thiên Ứng Chính Bình 1232-1251
36.   Nguyên Phong 1251-1258
37.   Thiệu Long 1258-1272 Trần Thánh Tông
38.   Bảo Phù 1273-1278
39.   Thiệu Bảo 1279-1285 Trần Nhân Tông
40.   Trùng Hưng 1285-1293
41.   Hưng Long 1293-1314 Trần Anh Tông
42.   Đại Khánh 1314-1323 Trần Minh Tông
43.   Khai Thái 1324-1329
44.   Khai Hựu 1329-1341 Trần Hiến Tông
45.   Thiệu Phong 1341-1357 Trần Dụ Tông
46.   Đại Trị 1358-1369
47.   Đại Định 1369-1370 Dương Nhật Lễ
48.   Thiệu Khánh 1370-1372 Trần Nghệ Tông
49.   Long Khánh 1372-1377 Trần Duệ Tông
50.   Xương Phù 1377-1388 Trần Phế Đế
51.   Quang Thái 1388-1398 Trần Thuận Tông
52.   Kiến Tân 1398-1400 Trần Thiếu Đế
53.   Thánh Nguyên 1400-1400 Hồ Quý Ly
54.   Thiệu Thành 1401-1402 Hồ Hán Thương
55.   Khai Đại 1403-1407
56.   Hưng Khánh 1407-1408 Giản Định Đế
57.   Trùng Quang 1409-1413 Trần Quý Khoáng
58.   Thiên Khánh 1426-1427 Trần Cảo
59.   Thuận Thiên 1428-1433 Lê Thái Tổ
60.   Thiệu Bình 1434-1439 Lê Thái Tông
61.   Đại Bảo
(hay Thái Bảo)
1440-1442
62.   Đại Hòa
(hay Thái Hòa)
1443-1453 Lê Nhân Tông
63.   Diên Ninh 1454-1459
64.   Thiên Hưng 1459-1460 Lê Nghi Dân
65.   Quang Thuận 1460-1469 Lê Thánh Tông
66.   Hồng Đức 1470-1497
67.   Cảnh Thống 1498-1504 Lê Hiến Tông
68.   Thái Trinh 1504-1504 Lê Túc Tông
69.   Đoan Khánh 1505-1509 Lê Uy Mục
70.   Hồng Thuận 1509-1516 Lê Tương Dực
71.   Quang Thiệu 1516-1522 Lê Chiêu Tông
72.   Thống Nguyên 1522-1527 Lê Cung Hoàng
73.   Minh Đức 1527-1529 Mạc Thái Tổ
74.   Đại Chính 1530-1540 Mạc Thái Tông
75.   Quảng Hòa 1540-1546 Mạc Hiến Tông
76.   Vĩnh Định 1547-1547 Mạc Tuyên Tông
77.   Cảnh Lịch 1548-1553
78.   Quang Bảo 1554-1561
79.   Thuần Phúc 1562-1565 Mạc Mậu Hợp
80.   Sùng Khang 1566-1577
81.   Diên Thành 1578-1585
82.   Đoan Thái 1586-1587
83.   Hưng Trị 1588-1590
84.   Hồng Ninh 1591-1592
85.   Vũ An 1592-1593 Mạc Toàn
86.   Bảo Định 1592-1592 Mạc Kính Chỉ
87.   Khang Hựu 1593-1593
88.   Càn Thống 1593-1625 Mạc Kính Cung
89.   Long Thái 1623-1638 Mạc Kính Khoan
90.   Thuận Đức 1638-1677 Mạc Kính Vũ
91.   Nguyên Hòa 1533-1548 Lê Trang Tông
92.   Thuận Bình 1548-1556 Lê Trung Tông
93.   Thiên Hựu 1556-1557 Lê Anh Tông
94.   Chính Trị 1558-1571
95.   Hồng Phúc 1572-1573
96.   Gia Thái 1573-1577 Lê Thế Tông
97.   Quang Hưng 1578-1599
98.   Thận Đức 1600-1601 Lê Kính Tông
99.   Hoằng Định 1601-1619
100.                      Vĩnh Tộ 1619-1629 Lê Thần Tông
(lần 1)
101.                      Đức Long 1629-1635
102.                      Dương Hòa 1635-1643
103.                      Phúc Thái 1643-1649 Lê Chân Tông
104.                      Khánh Đức 1649-1653 Lê Thần Tông
(lần 2)
105.                      Thịnh Đức 1653-1658
106.                      Vĩnh Thọ 1658-1662
107.                      Vạn Khánh 1662-1662
108.                      Cảnh Trị 1663-1671 Lê Huyền Tông
109.                      Dương Đức 1672-1674 Lê Gia Tông
110.                      Đức Nguyên 1674-1675
111.                      Vĩnh Trị 1676-1679 Lê Hy Tông
112.                      Chính Hòa 1680-1705
113.                      Vĩnh Thịnh 1705-1720 Lê Dụ Tông
114.                      Bảo Thái 1720-1729
115.                      Vĩnh Khánh 1729-1732 Lê Duy Phường
116.                      Long Đức 1732-1735 Lê Thuần Tông
117.                      Vĩnh Hựu 1735-1740 Lê Ý Tông
118.                      Cảnh Hưng 1740-1786 Lê Hiển Tông
119.                      Chiêu Thống 1786-1788  Lê Mẫn Đế

Trong các thời thì các vua thời Lý được ghi chép lại với 32 niên hiệu qua 9 đời vua chính thức và nhiều niên hiệu với 4 chữ. Có thể nói đây là một đặc điểm rất đặc sắc. Chúng ta có thể đi phân tích ý nghĩa của các niên hiệu dưới thời Lý để thấy thuyết Thiên mệnh có ảnh hưởng như thế nào đến cách đặt niên hiệu.

  1. Lý Thái Tổ tên thật là Lý Công Uẩn nắm ngôi từ năm 1009-1028 là vị “vua ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thì mở vận, là người khoan từ nhân thứ, tính mật ôn nhã, có lượng đế vương”. Trong thời gian làm vua, Lý Thái Tổ chỉ đặt một niên hiệu là Thuận Thiên có nghĩa là thuận ý trời, thuận theo mệnh trời, theo thiên đạo.
  2. Lý Thái Tông tên thật là Lý Phật Mã, 26 năm (1028-1054) ở trên ngôi báu đã được coi “là người nhân triết thông tuệ, có đại lược văn võ, trong lục nghệ không nghề gì không tinh tường. Vì có tài đức ấy nên có thể làm mọi việc”.

Trong thời gian làm vua, Lý Thái Tông đã đặt 6 niên hiệu là:

– Thiên Thành (1028-1034) nghĩa là trời tác thành mà được làm vua.

– Thông Thụy (1034-1039) nghĩa là điềm lành thông suốt.

– Càn Phù Hữu Đạo (1039-1042) nghĩa là Trời ban mệnh và phù giúp có thiên đạo.

– Minh Đạo (1042-1044) nghĩa là đạo Trời sáng tỏ.

– Thiên Cảm Thánh Vũ (1044-1049) nghĩa là Trời cảm ứng mà ban cho mưa móc.

– Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054) nghĩa là nhờ sùng kính Trời mà được báu vật lớn.

  1. Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, làm vua 18 năm (1054-1072). Trong thời gian làm vua, Lý Thánh Tông đã đặt 5 niên hiệu là:

– Long Thụy Thái Bình (1054-1058) nghĩa là điềm rồng xuất hiện báo hiệu nền thái bình tốt đẹp.

– Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065) nghĩa là Thánh thần phù trợ đem đến sự rạng rỡ, tốt đẹp, vui mừng.

– Long Chương Thiên Tự (1066-1068) nghĩa là ngôi rồng là kẻ thừa tự rạng rỡ của Trời.

– Thiên Huống Bảo Tượng (1068-1069) nghĩa là Trời ban phúc cho con voi quý.

– Thần Vũ (1069-1072) nghĩa là biểu dương vũ lực như thần của hoàng đế.

  1. Lý Nhân Tông tên thật là Lý Càn Đức, ở ngai báu trong 55 năm (1072 -1127) là vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử. Sử sách ca ngợi Lý Nhân Tông là người “nhân hiếu, có tiếng đức tốt, trọng kén chọn danh thần, đặt khoa thi Tiến sĩ…cầu người hiền, nghe lời can, nhẹ thuế khóa, ít lao dịch cho nên tự hưởng cõi thái bình, rất mực nên giàu thịnh[5]

Trong thời gian làm vua, Lý Thánh Tông đã đặt 8 niên hiệu là:

– Thái Ninh (1072-1076) nghĩa là thiên hạ được an ninh cực lạc.

– Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084) nghĩa là vũ lực hùng mạnh đem lại chiến thắng rực rỡ.

– Quảng Hựu (1085-1092) nghĩa là sự phù hộ lan tỏa rộng khắp.

– Hội Phong (1092-1100) nghĩa là sự hội tụ phong phú.

– Long Phù (1101-1109) nghĩa là điềm rồng xuất hiện báo hiệu sự phù trợ tốt đẹp.

– Hội Tường Ðại Khánh (1110-1119) nghĩa là hội tụ các điều tốt lành lớn.

– Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126) nghĩa là Trời phù giúp để có võ công rực rỡ.

– Thiên Phù Khánh Thọ (1127) nghĩa là Trời phù hộ của vua được hưởng thọ.

  1. Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, làm vua 10 năm (1128-1138) đã thực hiện nhiều hoạt động tích cực nhằm ổn định xã hội, tăng cường sức mạnh của đất nước và được đánh giá là vị vua biết “sửa sang chính sự, nhậm dụng hiền năng, đặt khoa Hoành từ, định lệnh binh nông, xét về mặt chính trị cũng là bậc siêng năng”.

Trong thời gian làm vua, Lý Thần Tông đã đặt 2 niên hiệu là:

– Thiên Thuận (1128-1133) nghĩa là thuận theo mệnh Trời.

– Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138) nghĩa là mệnh Trời rạng rỡ tôn quý.

  1. Lý Anh Tông tên thật là Lý Thiên Tộ, ở ngôi vua 37 năm (1138-1175), tỏ ra là người biết quản lý, điều hành chính trị, “không mê hoặc lời nói đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi là không hổ thẹn với trách nhiệm gánh vác”

Trong thời gian làm vua, Lý Anh Tông đã đặt 4 niên hiệu là:

– Thiệu Minh (1138-1139) nghĩa là nối tiếp sự anh minh.

– Đại Định (1140-1162) nghĩa là sự ổn định lớn.

– Chính Long Bảo Ứng (1163-1174) nghĩa là thiên chính ứng với đạo Trời.

– Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) nghĩa là Trời cảm động mà ban vật quý.

  1. Lý Cao Tông tên thật là Lý Long Trát, làm vua trong 35 năm (1175-1210) tuy cũng làm được một số việc mà sử sách ghi nhận là tốt, nhất là giai đoạn những năm đầu làm vua nhưng chủ yếu ham chơi, đắm chìm trong tửu sắc. Sử chép: “Vua chơi bời không điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém”.

Trong thời gian làm vua, Lý Cao Tông đã đặt 4 niên hiệu là:

– Trinh Phù (1176-1186) nghĩa là theo phù mệnh Trời để bền vững.

– Thiên Tư Gia Thụy (1186-1202) nghĩa là điềm lành Trời ban.

– Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1205) nghĩa là Trời ban phúc phù hộ họ Lý.

– Trị Bình Long Ứng (1205-1210) nghĩa là đất nước thái bình thịnh trị với điềm rồng ứng hiện.

  1. Lý Huệ Tông tên thật là Lý Hạo Sảm, ở ngôi trong 14 năm (1211-1224) khi mà vương triều nhà Lý đã suy yếu. Trong thời gian làm vua, Lý Huệ Tông chỉ đặt một niên hiệu là Kiến Gia, có nghĩa là xây dựng sự tốt lành.
  2. Lý Chiêu Hoàng tên thật là Lý Phật Kim, làm vua hơn 1 năm, từ tháng 10 năm Giáp Thân (1224) đến tháng 12 năm Ất Dậu (1225) thì bị họ Trần lập kế cướp ngôi thông qua “vở kịch” vợ nhường ngôi cho chồng. Trong thời gian làm vua, Lý Chiêu Hoàng chỉ đặt một niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo nghĩa là đạo Trời sáng tỏ[6].

Sự thay đổi của niên hiệu diễn ra rất nhiều dưới thời Lý là do ảnh hưởng của thuyết Thiên nhân cảm ứng. Thiên nhân cảm ứng là nhận thức cơ bản nhất về mối quan hệ tương hỗ giữa con người và vũ trụ của người Trung Hoa xưa, chính là lấy “Thiên nhân hợp nhất” làm cơ sở. Chính vì vậy, dưới thời Lý, nhà vua thường tiến hành đổi niên hiệu. Mỗi khi thay đổi niên hiệu, vua ban ra chiếu chỉ thông báo cho toàn dân được biết, việc thay đổi đó gọi là cải nguyên. Lễ Cải nguyên thường thấy khi xảy ra những sự kiện, biến cố quan trọng hoặc để ghi một dấu ấn đặc biệt nào đó. Thí dụ vào tháng 11 năm Giáp Thân (1044), sau khi đánh thắng Chiêm Thành, Lý Thái Tông đổi niên hiệu Minh Đạo thành niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ; hay như tháng giêng năm Bính Ngọ (1066) Nguyên phi Ỷ Lan sinh hạ hoàng tử, Lý Thánh Tông mừng rỡ đã đổi niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thành Long Chương Thiên Tự; hoặc vào tháng 7 năm Bính Ngọ (1186), Lý Cao Tông sai người đi săn, bắt được voi trắng, cho đó là điềm tốt bèn đặt cho voi tên là Thiên Tư rồi xuống chiếu đổi niên hiệu là Thiên Tư Gia Thuỵ… Vị vua thay đổi niên hiệu nhiều lần như vua Lý Nhân Tông (1066-1128), ông đã đặt tất cả 8 niên hiệu, trở thành vị hoàng đế có nhiều niên hiệu nhất trong lịch sử.

Việc đổi niên hiệu trong trường hợp dịch bệnh hoành hành mãnh liệt chính là để nhân loại cần tự suy ngẫm lại bản thân, từ đó, quay về truyền thống, tích đức hành thiện. Đồng thời, khi con người minh chân tướng mới có thể bình an qua kiếp nạn. Khi đất nước có loạn lạc, dịch dã, mất mùa nhà vua tin rằng mình là con trời không làm tròn nhiệm vụ, đã vi phạm lỗi lầm nên phải sửa lỗi ăn năn, một trong những cách biểu hiện đó là bằng cách thay đổi niên hiệu. Bằng chứng là năm 1628, đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Tộ, có nạn đói kém nên năm 1629, vua đổi biên hiệu thành Đức Long. Vào giai đoạn sau, thuyết Thiên nhân cảm ứng được hạ thấp nên hoàng đế chỉ đặt một niên hiệu. Thời Tây Sơn, các hoàng đế Việt Nam (trừ Nguyễn Quang Toản) đều chỉ có một niên hiệu. Nguyễn Huệ có niên hiệu Quang Trung, Nguyễn Phúc Ánh có niên hiệu Gia Long, Nguyễn Phúc Đảm có niên hiệu Minh Mạng, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy có niên hiệu Bảo Đại….

Như vậy, niên hiệu và sự thay đổi niên hiệu là kết quả tất yếu của sự thay đổi các vương triều. Điều đó thể hiện mong muốn ý chí của các bậc trị vì vừa thể hiện nhu cầu, quy định về mặt quản lý hành chính với chế độ phong kiến. Ý nghĩa của những niên hiệu còn chứa đựng những giá trị tinh hoa của nền văn hóa Phương Đông.

Xét về mặt ý nghĩa, thì Lễ cải nguyên cũng bao gồm một chuỗi các nghi thức  để bố cáo cho toàn dân thiên hạ biết về niên hiệu của vua được thay đổi giúp bộ máy chính quyền cũng như bách tính được biết và tuân theo. Về nghi thức của lễ Cải nguyên hiện nay dưới các thời Lý-Trần và Lê sơ không có nhiều tư liệu. Lịch triều hiến chương loại và Lê triều hội điển có ghi chép về nghi thức lễ Cải nguyên thời Lê Trung hưng. Qua tư liệu này, chúng ta thấy việc thực hiện lễ Cải nguyên phải được chúa thông qua. Phụng chỉ của chúa, trong ngày hôm trước, các quan đình thần bàn luận về việc đặt chữ niên hiệu và ân xá. Sau khi thống nhất thì làm tờ tâu lên niên hiệu mới và việc ân xá để được chúa phê duyệt. Tiếp đó, thì sang bên cung vua để vua chuẩn cho, Tư Thiên giám sẽ chọn này để cáo tế trời đất và các vị tôn vị ở điện miếu. Còn việc tế cáo điện miếu thần từ ở Thanh Nghệ và tứ trấn, truyền cho quan Tam ty lấy tiền công mua lễ vật mà làm. Quan hai ban văn võ, quan Ty lễ giám, quan Nhị ty các xứ, quan Phủ doãn và các quan trong kinh đều dâng lễ mừng theo thứ bậc.

* Chuẩn bị cho lễ Cải nguyên

Âm nhạc: Ty giáo phường bày dàn bát âm ở hai bên sân Đan Trì.

Nghi trượng trong điện: đặt tọa ngự ở giữa điện Thị Triều, đặt sập Ngự ở bên tả, đặt bảo án ở phía đông tòa Ngự. Cục Thừa dụ bày bàn hương phía nam điện.

Không gian nghi lễ tại sân Rồng: Ty Nghi vệ bày án để đạo chiếu và bốn chiếc tán vàng ở bên tả sân Đan Trì. Cục Thừa dụ bày hai chiếc kỷ gỗ để đạo chiếu bên tả sân Đan Trì (hơi lui xuống phía tây).

– Bày biện cờ phướn theo nghi thức.

Hệ thống quan chấp sự: 2 Dẫn chiếu án (dùng quan Hàn lâm), 1 Tuyên chiếu (dùng quan Đông các), 2 Mở chiếu (dùng quan Hàn lâm), 1 Điển lễ (dùng quan Bộ Lễ) đều đứng ở phía tây Đan Trì, 1 Đại Trí từ (dùng quan Thị lang) đứng bên hữu Đan Trì (cũng hướng đó), 2 Tự ban đứng ở hai bên, ngoài cửa Đoan Môn (cùng hướng, 1 ty Nghi vệ đứng bê tả sân Đan Trì, 2 viên Nhạc quan đứng ở hai bên sân Đan Trì, chỗ đặt dàn đại nhạc (hướng bắc), 4 viên Vút roi đứng ở hai bên phía Nam sân Đan Trì.

*Nghi thức lễ Cải nguyên

– Các quan sắp hàng ngoài cửa Đoan Môn: Sớm hôm đó, các ty bày nghi trượng ở hai bên sân Đan Trì. Bày dàn nhạc nhưng không tấu nhạc. Các đại thần hàng công, hầu, bá và bá quan văn võ vâng theo chỉ dụ của chúa thượng đều mặc phẩm phục đứng bên ngoài cửa Đoan Môn. Quan triều yết đứng ngoài cửa Càn Nguyên.

– Rước vua từ nội điện ra điện Thị Triều: Các viên chấp sự vào sân Đan Trì đứng hầu. Đến giờ rước Hoàng thượng từ chỗ ngự tạm vào điện Vạn Thọ. Quan Ty lễ giám tâu xin Hoàng thượng đội mũ mang đai. Quan giữ ấn dâng ấn. Quan Ty lễ giám ra trước sân Đan Trì tuyên chiếu, truyền cho các quan nghiêm chỉnh hàng ngũ để làm lễ ban chiếu. Rước giá đi ra. Quan Bưng ấn bưng ấn, tướng sĩ hộ vệ hộ tống đi theo đúng nghi lễ, rước đến sân điện Kính Thiên, chuông bắt đầu gióng, một viên Tự ban dẫn các đại thần đứng đầu ban và bá quan vào hai bên sân Đan Trì đứng hầu. Hai viên dẫn quan triều yết đứng thứ tự ngoài cửa Đoan Môn. Hai viên dẫn các quan đưa chiếu đứng hầu cuối thêm bên hữu sân Đan Trì. Hoàng thượng ngự lên ngai, quang Bưng ấn đặt ấn lên án.

– Các quan hành lễ: Người vút roi gióng chuông. Thông tán xướng: Bài ban (Ngoại tán cũng xướng như vậy), bá quan sắp xếp theo ban. Thông tán xướng: “Ban tề”, lại xướng: “Cúc cung ngũ bái tam khấu; Hưng, bình thân”.

Truyền chiếu: quan Bưng chiếu đến giữa đường Ngự đạo, truyền cho phủ phục rồi quỳ. Một viên quan Ty lễ giám bưng một đạo chiếu trao cho quan Bưng chiếu rồi đi chếch ra mé đông đứng. Quan Bưng chiếu nhận lấy rồi đặt lên án. Quan Dẫn chiếu dẫn bốn viên Tự ban đến nâng án lên. Bốn viên Thiên bá hộ nâng tán vàng che hộ vệ. Từ bên tả sân Đan Trì đi hơi quá lên đặt giữa đường Ngự đạo. Quan Bưng chiếu đến bên án lấy chiếu. Quan Tuyên chiếu mở chiếu đều đứng lên kỷ gỗ, quan Bưng chiếu trao chiếu cho quan Tuyên chiếu. Quan Tuyên chiếu nhận lấy hô “Hữu chiếu”.

– Tuyên chiếu: Thông tán xướng: “Bá quan giai quỵ” (Ngoại tán cũng xướng như vậy). Quan Tuyên chiếu trao chiếu cho quan Mở chiếu. Quan Mở chiếu nhận lấy mở ra, quan Tuyên chiếu tuyên chiếu xong, trao chiếu cho quan Bưng chiếu. Quan Tuyên chiếu và quan Mở chiếu đều xuống khỏi kỷ đi về chỗ cũ. Quan Bưng chiếu đến giữa đường Ngự đạo dâng lên. Quan Ty lễ giám nhận lấy đặt lên án đi ra mé đông đứng. Quan Bưng chiếu phủ phục rồi đứng dậy đi về chỗ cũ. Hai viên Dẫn chiếu án dẫn bốn viên Tự ban đến dâng án lên. Thiên bá hộ che tán vàng theo, lại đặt trở lại bên tả Đan Trì. Thông tán xướng: “Phủ phục hưng, bình thân”. (Ngoại tán cũng xướng như vậy). Bá quan chia theo ban mà đứng.

– Tâu xin mang mang chiếu ra Quảng Văn Đình và ban bố các xứ: quan Hồng lô tự từ dưới ban bên tả sân Đan Trì đi tới giữa đường Ngự đạo quỳ xuống tâu: “Kính vâng đưa chiếu đến Quảng Văn Đình và các xứ, tất cả 13 đạo”. Tâu xong, phủ phục rồi đứng lên đi về chỗ cũ. Quan Điển lễ xướng: “Thụ chiếu”. Các quan Bưng chiếu, đưa chiếu đến giữa đường Ngự đạo đều vái 5 vái 3 khấu đầu rồi quỳ xuống. Một viên quan Ty lễ giám lấy trước một đạo chiếu ân xá trao cho quan Bưng chiếu. Một viên lại bưng 12 đạo chiếu còn lại trao cho các quan đưa chiếu nhận lấy từ giữa đường Ngự đạo đi ra. Quan Bưng chiếu bưng chiếu đến Quảng Văn Đình. Các quan đưa chiếu đưa chiếu đến các nơi. Các viên Chấp sự theo thứ tự từng ban tiến vào làm lễ 5 vái 3 khấn đầu rồi đi về vị trí cũ.

– Lễ tất: Ti Nghi chế đến giữa đường ngự đạo quỳ xuống tâu: “Lễ tất”. Rồi vút roi rước Hoàng thượng ngự giá về cung. Bá quan theo thứ tự đi ra.

Trên đây là nghi thức lễ Cải nguyên của thời kỳ Lê Trung hưng. Về trình tự, diễn tiến của Lễ Cải nguyên được Lịch triều hiến chương loại chí ghi chép là tương tự như Lễ Đăng quang chứng tỏ về quy mô của Lễ Cải nguyên cũng như Lễ Cải nguyên.

Như vậy, trong lịch sử phong kiến, niên hiệu có vai trò quan trọng trong việc trị vì cũng thể hiện ý thức hệ của chế độ phong kiến. Niên hiệu, lễ Cải nguyên nói riêng và nghi lễ cung đình từ lâu đã trở thành lịch sử. Tuy nhiên, dưới những triều đại thịnh trị, phát triển hay suy vong thì niên hiệu vẫn thể hiện những điều tốt đẹp được các hoàng đế gửi gắm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Tập 1, 2, 3, Nxb Khoa học xã hội
  2. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí Viện KHXH, Viện sử học, Tập 1, Nxb Giáo dục.
  3. Lê triều hội điển, Điển chế và pháp luật Việt Nam thời trung đại tập II (2011), NXB Khoa học xã hội.
  4. Lý Nham Hinh, Cố Đạo Hinh, Vương An Hậu, Hàn Quảng Trạch, Nguyễn Tiến Đoàn dịch (2006), Sinh hoạt trong cung đình Trung Quốc, Nxb Lao động.
  5. Ngô gia văn phái, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (TV. VNCHN), VHv.1743 và nhiều bộ khác.
  6. Bùi Hạnh Cẩn – Minh Nghĩa – Việt Anh: Trạng nguyên Tiến sĩ Hương cống Việt Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 2002.
  7. Lê Quý Đôn: Toàn Việt thi lục, TV. VNCHN, A.1262 và nhiều bản khác.
  8. Trần Văn Giáp (Chủ biên): Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội – 1971, 1972.
  9. Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Nxb. Văn hóa, Hà Nội-1984 và tập 2, Nxb. KHXH, Hà Nội – 1990.
  10. Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội – 1999.
  11. Trần Nghĩa – François Gros (Chủ biên): Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, Nxb. KHXH, Hà Nội – 1993.
  12. Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hóa, 1997.
  13. Thơ văn Lý – Trần, Nxb. KHXH, 1977, 1978, 1989.
  14. https://zh.wikipedia.org/wiki/年号
  15. https://baike.baidu.com/item/年号/ 103411
  16. https://dnulib.edu.vn/nien-hieu-la-gi/
  17. https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/15428/nien-hieu-cua-vua-trieu-ly-mang-y-nghia-gi.html
  18. https://nghiencuulichsu.com/2017/01/03/tim-hieu-ve-danh-tu-hieu-cua-nguoi-xua/
  19. https://danviet.vn/nien-hieu-cua-9-vua-trieu-ly-mang-y-nghia-gi-20230527181831043.htm

[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/Ni%C3%AAn_hi%E1%BB%87u

[2] https://hvdic.thivien.net/hv/ni%C3%AAn%20hi%E1%BB%87u

[3] https://vi.wikipedia.org/wiki/Ni%C3%AAn_hi%E1%BB%87u_Vi%E1%BB%87t_Na-

[4] Nhà Lý suy yếu, ngoài niên hiệu Kiến Gia của Lý Huệ Tông còn có niên hiệu của Lý Nguyên vương (1214-1216) do Trần Tự Khánh dựng lên. Thời gian có 2 niên hiệu đồng thời là 3 năm (1214-1216).

[5] Việt giám thông khảo tổng luận trang 11b. trích theo https://nomfoundation.org/nom-project/history-of-greater-vietnam/Fulltext/106-Khao-tong-luan?uiLang=en

[6] https://danviet.vn/nien-hieu-cua-9-vua-trieu-ly-mang-y-nghia-gi-20230527181831043.htm

Đinh Thị Nguyệt

Bài viết cùng chủ đề

Back to top button