Chơi tranh Tết, thú chơi tao nhã cần được gìn giữ và bảo tồn: Kỳ 2 “Tranh Hàng Trống”
Sở dĩ gọi là “Tranh Hàng Trống” là vì loại tranh này được sản xuất tập trung ở phố Hàng Trống một trong 36 phố phường cổ của kinh đô Thăng Long xưa. Tuy nhiên, tranh Hàng Trống trước kia cũng được làm ở các phố khác như Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt, đồng thời bày bán ở các phố ấy, nhưng tập trung làm và bán nhiều nhất vẫn ở Hàng Trống. Các phố làm tranh này, trước kia đều thuộc tổng Tiên Túc (sau đổi thành tổng Thuận Mỹ) huyện Thọ Xương (cũ) của kinh thành Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Bức tranh “Thất Đồng” và “Tam Đa” – Tranh dân gian Hàng Trống
Phố Hàng Trống thuộc phần đất thôn Tự Tháp xưa kia. Tranh Hàng Trống thì có từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ XVI, Hoàng Sĩ Khải ở bài thơ dài “Tứ thời khúc vịnh”, đoạn tả cảnh Tết ở kinh thành Thăng Long đã có nói đến các tờ tranh dân gian và tục chơi tranh Tết:
“…Chung Quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phong linh ngăn tà
Tranh vẽ gà, cửa treo thiếp yểm,
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương…”
Rõ ràng là ngày Tết, các gia đình ở kinh thành có treo tranh Chung Quỳ cùng với các thần trừ ma khác, vẽ trên gỗ đào, có treo tranh gà cả tranh người đẹp.
Bức tranh “Thần trấn cửa”- Tranh dân gian Hàng Trống
Có thể dễ dàng bắt gặp tranh Hàng Trống ở những nơi linh thiêng nhất trong các đền, miếu, điện thờ, trong các bộ sưu tập tranh quý giá nhất của các tư nhân. Người ta làm và bán các loại tranh thủ công ấy quanh năm, nhiều hơn cả là dịp Tết Nguyên đán, phần lớn bán trong các cửa hiệu. Riêng tranh dân gian người ta còn bày bán từng quầy trên hè phố, nhất là vào dịp cuối năm, để phục vụ người dân treo chơi Tết. Dòng tranh Hàng Trống thường được thể hiện các đề tài như sau:
Tranh Thờ: Loại tranh này phục vụ cho nhu cầu thờ cúng trong các điện, miếu. Do yêu cầu ấy, tranh thờ mang mầu sắc tôn giáo, hình tượng được thể hiện là con người và vật tuy gần gũi mà vẫn rất thần bí, loại tranh này đáp ứng ước vọng của tầng lớp vua chúa, quan lại, quý tộc và thị dân, có loại tranh “Phúc Lộc Thọ” (Tam Đa), đông con cháu để nối dõi “Thất Đồng”, “Tôn Tử Vạn Đại”… Có một lượng lớn tranh Hàng Trống là tranh thờ, như các tranh Tứ phủ, Tam phủ, vẽ các bà Mẫu Thoải, Thượng Thiên, Thượng Ngàn, các thần tướng Bạch Hổ, Hắc Hổ hay Ngũ Hổ, và các đức Thánh Trần, ông Hoàng, cậu Quân… từng được phổ biến một thời ở kinh thành Thăng Long xưa.
Bức tranh “Đức thánh Trần”- Tranh dân gian Hàng Trống
Bức tranh “Ngũ Hổ”- Tranh dân gian Hàng Trống
Tranh sinh hoạt và thiên nhiên: “Chợ Quê”, “Canh nông chi đồ”, “Chim Công”, “Lý Ngư Vọng Nguyệt”, “Tứ Quý”, “Tố Nữ”…
Bức tranh “Tố nữ”- Tranh dân gian Hàng Trống
Bức tranh “Lý ngư vọng Nguyệt” và “Chim Công” – Tranh dân gian Hàng Trống
Tranh Hàng Trống có kỹ thuật và phong cách khác biệt tranh Đông Hồ trên đất Kinh Bắc. Nếu như ở tranh Đông Hồ, in viền nét và in màu đều dùng bản khắc gỗ thì ở tranh Hàng Trống in tranh chỉ dùng ván khắc gỗ in nét tranh trên chất liệu giấy dó… Các ván khắc in tranh đều phải theo mẫu tranh, các mẫu tranh do các nghệ nhân đảm nhiệm, gọi là “ra mẫu”. Người “ra mẫu” tranh thường là người giỏi nhất của từng nhóm thợ, rất tinh tế, giàu kinh nghiệm, nên khi đặt bút vẽ trên tờ giấy bản là lập tức hiện ra hình ảnh như bay như múa. Người vẽ mẫu cũng là người đặt lời trên tranh. Chữ trên tranh phải đạt mức: làm rõ nghĩa của tranh, làm cân đối thêm bố cục tác phẩm, mà không bị rườm rà. Có mẫu tranh phải sáng tác hàng tháng mới xong. Tiếp sau đó đến công đoạn bồi tranh.., công đoạn này là một khâu quan trọng trong quá trình hình thành một tác phẩm, sự thành công, và tồn tại lâu bền của tác phẩm phụ thuộc vào công đoạn này, nó là sự truyền đạt kinh nghiệm tích luỹ, khéo léo của những nghệ nhân đời trước để lại cho đời sau. Sau khi đã có được bản in hoàn chỉnh thì người vẽ tranh dùng bút lông chấm màu để tô lên từng mảng màu đậm nhạt, tuỳ theo nội dung, đường nét và các loại tranh. Do cách tô màu bằng tay (vờn màu bằng tay, nét cản) của tranh Hàng Trống có đặc điểm ở mỗi tờ tranh đều có nét sáng tạo riêng. Mặc dù có những hạn chế nhất định do hoàn cảnh lịch sử, môi trường địa lý và đặc điểm tâm lý quý tộc, thị dân, nhưng tranh Hàng Trống vẫn có những đóng góp đáng kể vào kho tàng nghệ thuật dân gian Việt Nam, đã để lại những kiệt tác sống mãi với thời gian. Đó là bức tranh: “Lý Ngư Vọng Nguyệt”, bộ tranh “Tố Nữ”, bộ tranh “Tùng Cúc Trúc Mai”, “Chim Công”, “Thất Đồng”, “Tam Đa”, “Chợ Quê”, vv… và hàng loạt tranh thờ như : “Ngũ Hổ”, “Bạch Hổ”, “Hắc Hổ”, “Đức Thánh Trần”, “Ông Hoàng Ba”, “Mẫu Thượng Ngàn”, “Tứ Phủ Công Đồng”, “Tam Phủ”.vv…
Bức tranh “Tứ phủ công đồng”- Tranh dân gian Hàng Trống
Bằng những tác phẩm ấy, tranh dân gian Hàng Trống còn lưu lại mãi mãi trong tâm trí mỗi người Việt Nam chúng ta. Những tác phẩm của dòng tranh dân gian Hàng Trống kể trên quả là những kiệt tác, chúng toát lên cái sinh động, tinh tế, ý nhị và sâu sắc lạ thường cả về nội dung lẫn hình thức. Phải thừa nhận rằng, ở những bức tranh này đã bộc lộ đầy đủ tài năng của những người nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống. So với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống có phần uyển chuyển hơn, sắc độ trên tranh cũng êm ái hơn. Đó là nét đặc sắc của dòng tranh này.
Bức tranh “Bà chúa Thượng ngàn” – Tranh dân gian Hàng Trống
Bức tranh “Tam phủ” – Tranh dân gian Hàng Trống
Phường tranh Hàng Trống tồn tại và phát triển rất lâu đời, rất nổi tiếng và trở nên phồn thịnh một thời gắn liền với mảnh đất Thăng Long đô hội. Những sản phẩm của trung tâm sản xuất tranh dân gian này hết sức độc đáo. Khá nhiều tranh Hàng Trống đã đạt mức kiệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật tạo hình dân gian Việt Nam. Từ nội dung, hình thức đến chất liệu, tranh Hàng Trống mang màu sắc đặc trưng riêng của Hà Nội, nhưng cũng rất Việt Nam, không thể trộn lẫn. Những bức tranh tuyệt mỹ của dòng tranh này được nhân dân Việt Nam đến nay vẫn ưa chuộng và là một niềm tự hào của người dân Thăng Long – Hà Nội.
Mời Quý độc giả đón xem tiếp Kỳ 3 : “Tranh Kim Hoàng”
Ban biên tập