“Một ngày bằng 20 năm”
Cách đây 50 năm trước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã diễn ra với nhịp độ “thần tốc”, “một ngày bằng 20 năm” đặt dấu chấm hết cho chế độ Việt Nam Cộng hòa và “5 chiến lược chiến tranh của 5 đời Tổng thống Mỹ”, buộc người Mỹ phải thừa nhận “Đó đã là một cuộc chiến đấu lâu dài và khó nhọc và chúng ta đã thua”, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn kết thúc chiến tranh Việt Nam được đánh dấu bằng sự kiện ngoại giao Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27/01/1973. Hiệp định Paris là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên, toàn diện nhất, đầy đủ nhất ghi nhận các quyền cơ bản của Nhân dân Việt Nam; là sự công nhận chính thức của quốc tế đối với nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, tạo ra thế và lực mới cho cuộc chiến đấu của dân tộc ta, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã có những quyết định chiến lược cho cách mạng.
Ngay sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực, ngày 28/1/1973, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã công khai tuyên bố lập trường 5 không của chính quyền Sài Gòn, đó là: Không liên hiệp; không thương lượng với đối phương; không để xảy ra hoạt động của cộng sản trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát; không để lọt vào tay đối phương bất cứ đất đai, tiền đồn nào do quân đội Sài Gòn chiếm giữ, không có hòa bình với cộng sản. Cũng ngay sau Hiệp định Paris được ký kết, Tổng thống Mỹ Nixon đã có cuộc gặp gỡ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại San Clemente, California, Mỹ. Cuộc trao đổi này nhằm đảm bảo sự tiếp tục hậu thuẫn về quân sự và tài chính của Mỹ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, như chính Tổng thống Nixon đã từng khẳng định: “Chúng tôi sẽ phản ứng mạnh mẽ trong trường hợp Hiệp định bị vi phạm. Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh sẽ tiếp tục cam kết đối với tự do và tiến bộ của Việt Nam Cộng hoà. Đó là ý định kiên quyết của tôi là viện trợ đầy đủ về kinh tế và quân sự”.
Mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn và phải khắc phục hậu quả nặng nề do sự ném bom, tàn phá của kẻ thù, nhưng cuộc kháng chiến của ta đang đứng trước thời cơ lớn. Quân và dân Việt Nam vừa kiên quyết đấu tranh đòi đối phương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Paris, chống lấn chiếm, đòi đối phương trao trả tù chính trị, tù binh, hiệp thương giữa hai miền, thành lập Hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc chuẩn bị tổng tuyển cử, vừa từng bước chuẩn bị thế và lực cho giai đoạn cách mạng mới.
Trước tình thế mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp Hội nghị lần thứ 21 (đợt 2) ngày 13/10/1973 nhấn mạnh nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam: “Kiên định con đường cách mạng bạo lực, giữ vững chiến lược tiến công, nắm vững thời cơ, chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn”.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 21, quân dân các chiến trường miền Nam chủ động tiến công, phản công địch, bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ đứng chân, đồng thời xây dựng lực lượng, tổ chức huấn luyện cán bộ và bộ đội bảo đảm hậu cần, xây dựng hậu phương, giành được kết quả quan trọng. Thanh niên nô nức lên đường nhập ngũ, chi viện cho chiến trường miền Nam với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”
Từ đầu năm 1974, quân ta ở các chiến trường trên toàn miền Nam chuyển sang phản công và tiến công, quyết tâm đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân, từng bước đẩy lùi địch về thế phòng ngự bị động. Đến giữa 1974, quân dân toàn miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 10 vạn tên địch các loại, tiêu diệt, bức hàng, bức rút 1.450 đồn bốt, giải phóng khoảng 50 vạn dân; mở ra một vùng giải phóng rộng lớn kéo dài suốt từ Tây Nguyên đến tận Đông Nam Bộ, tạo thế áp sát Sài Gòn.
Ngày 21/7/1974, tại Đồ Sơn (Hải Phòng) đã diễn ra cuộc họp quan trọng dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng với các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và Cục Tác chiến – Bộ Tổng tham mưu. Tại cuộc họp, các đồng chí tham dự đều thống nhất đánh giá đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn thành giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Phải xây dựng kế hoạch chiến lược sao cho tạo được thời cơ chiến lược và sẵn sàng chớp thời cơ. Kết thúc cuộc họp, đồng chí Lê Duẩn giao cho Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu soạn thảo Kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng miền Nam để trình Bộ Chính trị vào tháng 9/1974. Dự thảo “Kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng miền Nam” đã được “Tổ trung tâm” Cục Tác chiến – Bộ Tổng tham mưu hoàn thành ngày 26/8/1974. Nội dung kế hoạch gồm hai bước: Bước 1 (thực hiện trong năm 1975), tranh thủ bất ngờ tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (thực hiện trong năm 1976), thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Trên cơ sở bản Dự thảo “Kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng miền Nam”, từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/1/1975 ta mở và giành thắng lợi Chiến dịch Đường 14 – Phước Long là đòn trinh sát chiến lược như Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn đã nhận định “Lần đầu tiên ở miền Nam, một tỉnh hoàn toàn được giải phóng. Tỉnh đó lại ở gần Sài Gòn và mở rộng vùng căn cứ quan trọng của ta ở miền Đông. Thực tế này nói rõ hơn hết khả năng của ta, sự phản ứng thế nào của ngụy và nhất là của Mỹ”.
Giải phóng tỉnh Phước Long cũng đã mở ra cửa ngõ, bàn đạp tiến công Sài Gòn từ phía Bắc. Trong khi đó, trước sự sụp đổ nhanh của quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Phước Long, nhưng tại Nhà Trắng Tổng thống Mỹ Gerald Ford đã tuyên bố không đưa quân Mỹ quay trở lại Việt Nam “Không có hành động nào khác ngoài việc bổ sung viện trợ cho Sài Gòn. Sẽ không can thiệp vào miền Nam Việt Nam nếu xét ra không phù hợp với hiến pháp và pháp luật”.
Từ ngày 18/12/1974 đến ngày 8/1/1975, Bộ Chính trị họp Hội nghị mở rộng tại nhà D67 có các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy từ chiến trường ra tham dự thông qua Quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976, đồng thời dự kiến nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam vào năm 1975.
Ảnh: Từ ngày 18/12/1974 – 08/01/1975, tại Tổng Hành dinh, Bộ Chính trị tổ chức họp mở rộng.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, quân và dân ta bước vào Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 với tốc độ “Một ngày bằng 20 năm”
Từ ngày 4/3 đến ngày 3/4/1975 ta mở chiến dịch Tây Nguyên với quyết tâm “Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ Việt Nam và Đông Dương”. Chiến thắng Tây Nguyên mở đầu cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã tạo sức mạnh toàn diện mới, Chiến dịch Tây Nguyên đã xóa sổ hoàn toàn Quân đoàn 2, Quân khu 2 của chính quyền Sài Gòn, giải phóng địa bàn chiến lược Tây Nguyên và một số tỉnh Trung Bộ, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng, thế chiến lược giữa ta và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành tổng tiến công trên toàn miền Nam Việt Nam.
Khi chiến dịch Tây Nguyên đang trên đà thắng lợi, tại Tổng Hành dinh (Nhà D67), Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gấp rút tổ chức hội nghị. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị đặt quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975. Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Chiến dịch Trị Thiên – Huế (từ ngày 5 đến ngày 26/3/1975) và Chiến dịch Đà Nẵng (từ ngày 26 đến ngày 29/3/1975) nổ ra. Khi Huế chuẩn bị được giải phóng, Quân đội Việt Nam Cộng hòa rút chạy về co cụm tại Đà Nẵng, tại Tổng Hành dinh (Nhà D67) Bộ Chính trị nhanh chóng tổ chức Hội nghị mở rộng, quyết định: “Thời cơ chiến lược đã tới, một ngày bằng 20 năm, nắm vững thời cơ, hành động nhanh chóng, táo bạo, bất ngờ; Giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa”.
Ngày 26/3/1975, Huế được giải phóng và ngày 29/3/1975, Đà Nẵng được giải phóng đã khiến toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1, Quân khu I của chính quyền Sài Gòn bị tiêu diệt và tan rã. “Binh lính (Việt Nam Cộng hòa) rã ngũ nổi loạn, cố sức thoát ra hoặc vơ vét cái gì có thể kiếm được trong khoái lạc bắn giết và cướp bóc. Các tướng tá thì đang hoạch định các chuyến bay để bí mật trốn thoát… Suốt đêm, sự huỷ hoại, vơ vét, trộm cướp và hãm hiếp tiếp diễn. Toà nhà lãnh sự Mỹ, con voi trắng bị lột chỉ còn trơ cái vỏ”.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp, nhận định “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu” và quyết định “Nắm vững hơn nữa thời cơ chiến lược, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất; tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm”.
Ngày 7/4/1975 Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Bí thư Quân ủy Trung ương gửi bức mật điện số 1574, lệnh cho các đơn vị “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.
Từ ngày 9 đến 16/4/1975, ta mở Chiến dịch Xuân Lộc và chiến thắng mặc cho Chính quyền VNCH quyết tâm “Tôi thề giữ vững Xuân Lộc. Bất chấp cộng sản tập trung bao nhiêu sư đoàn, tôi cũng đánh gục họ… Sẽ đánh một trận oai hùng để Mỹ cho thêm viện trợ”…. Chiến dịch tiến công Xuân Lộc thắng lợi đã đập tan “cánh cửa thép” phía Đông, làm rung chuyển cả hệ thống phòng thủ còn lại của địch ở quanh Sài Gòn, làm suy sụp nhanh thêm tinh thần chiến đấu của quân ngụy. Thắng lợi của chiến dịch đã tạo ra một địa bàn tập kết thuận lợi cho các binh đoàn chủ lực tiến công vào Sài Gòn từ hướng Đông.
Ngày 14/4/1975 Tại Tổng Hành dinh (Nhà D67), Bộ Chính trị quyết định chiến dịch Sài Gòn – Gia Định mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 21/4/1975, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu từ chức để cao chạy xa bay, Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay. Trong một bài nói chuyện tại Trường Đại học Tunale vào ngày 23/4/1975, Tổng thống Mỹ Gerald Ford đã nêu rõ: “Cuộc chiến tranh đã kết thúc đối với người Mỹ”. Nhà Trắng gấp rút triển khai kế hoạch di tản người Mỹ tại Sài Gòn
Ngày 26/4/1975, Quân ta bắt đầu mở Chiến dịch Hồ Chí Minh với lực lượng áp đảo, gấp 3 lần lực lượng quân đội chính quyền Sài Gòn. Tham gia chiến dịch có 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Binh đoàn cánh Tây Nam (tương đương quân đoàn) cùng lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân trên địa bàn chiến dịch. Năm cánh quân của quân ta vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch:
Hướng Bắc: Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng): Bao vây, tiêu diệt địch ở Phú Lợi, Bến Cát, Bình Dương, Lai Khê, Tân Uyên; Tấn công đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam Cộng hòa, các Bộ Tư lệnh binh chủng ở Gò Vấp, Bình Thạnh; Tổ chức lực lượng tấn công hợp điểm với các Quân đoàn khác tại Dinh Độc Lập
Hướng Đông Nam: Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang): Đánh chiếm căn cứ Nước Trong, Tổng kho Long Bình, Chi khu Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, cảng và bến phà Cát Lái, Chi khu Đức Trạch, pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, quận 9 và quận 4 Sài Gòn; Tổ chức lực lượng thọc sâu đánh chiếm quận 1 và quận 3, hợp điểm tại Dinh Độc lập
Hướng Tây Bắc: Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên): Tiến công Sư đoàn 25 Việt Nam Cộng hòa tại Gò Dầu, Tràng Bảng; Đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, các quận Tân Bình, Phú Nhuận, hợp điểm với các đơn vị khác tại Dinh Độc Lập.
Ảnh: Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn trên xa lộ Biên Hòa (Nguồn: TTXVN)
Hướng Đông: Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long): Đánh chiếm khu vực Biên Hòa – Hố Nai; Tiến về Sài Gòn làm chủ các quận 1, 2, 3, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn
Hướng Tây và Tây Nam (Đoàn 232): Đánh Tân An, Mỹ Tho, chia cắt Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ, thọc sâu đánh chiếm Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Cầu Nhị Thiên Đường, Tổng Nha Cảnh sát, các quận 5, 6, 7, 8, 10, 11.
Chiều ngày 28 tháng 4, ngay khi nhậm chức và tiếp tục kêu gọi đàm phán, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ di tản. 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Quân Giải phóng tiến nhanh vào Sài Gòn và hầu như không gặp phải sức kháng cự lớn và có tổ chức nào. 11 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 các sĩ quan Quân đội giải phóng đưa Tổng thống Dương Văn Minh ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng đánh dấu thắng lợi của cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân sau 55 ngày đêm, kêt thúc cuộc chiến tranh vệ quốc sau 21 năm trường kỳ của nhân dân Việt Nam.
Với ý nghĩa to lớn đó, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025), Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội tổ chức triển lãm “Con đường thống nhất”. Triển lãm giới thiệu hơn 200 tài liệu, hình ảnh quý giá về giai đoạn “nước rút” của cách mạng miền Nam từ sau Hiệp định Paris tháng 1/1973, với những thay đổi về thế và lực của các bên trên chiến trường, triển lãm góp phần làm rõ sự lúng túng bị động của Mỹ – Ngụy sau chuỗi ngày thất bại liên tiếp tại các mặt trận, qua đó càng làm bật lên vai trò của Đảng ta trong việc nắm bắt thời cơ, chỉ đạo linh hoạt, kịp thời đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn. Triển lãm là dịp ôn lại chiến thắng hào hùng của dân tộc, tri ân những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, bồi đắp long yêu nước, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Ngày nay chiến thắng ngày 30/4/1975 mãi mãi là bản hùng ca vĩ đại, là động lực để chúng ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Triển lãm mở của phục vụ du khách tham quan từ ngày 28/4/2025 đến ngày 31/5/2025, tại Khu di sản Hoàng thành Thăng Long, số 19 Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội.
Tác giả: Nhóm nội dung phòng Bảo quản – Trưng bày